Thứ Sáu, 1 tháng 1, 2016

Đôi lời nhân chuyện báo chí TQ gọi Việt Nam là "đứa con đi hoang" (*)

(*) Thông báo của Chủ blog Bách Việt: Sau một ngày entry này được phát hành, tác giả bài viết tình cờ phát hiện cụm từ “đứa con đi hoang” có thể vì một lý do nào đó đã bị dịch sai lệch từ tiếng Trung sang tiếng Anh (“lãng tử quay đầu” thành “đứa con hoang đàng”). Tuy nhiên, sau khi truy tìm trên mạng chủ blog tôi không hề thấy bản dịch tiếng Anh trên phiên bản tiếng Anh của tờ Hoàn Cầu (chắc là đã được gỡ bỏ) cũng không thấy ai cải chính, nhưng lại thấy cư dân mạng TQ tự phê phán giới ngoại giao và báo chí TQ đã đưa ra từ “đứa con hoang đàng”. Như vậy rất có thể từ này là có thật như đã được phóng viên phương Tây trích đăng. Do đó chủ blog tôi quyết định vẫn giữ nguyên bài viết đồng thời cũng mong bạn đọc lượng thứ nếu có gì bất tiện. Xin cảm ơn.
———————————————————————————

Nhân chuyến đi Việt Nam của Dương Khiết Trì ngày 18/6, báo chí TQ đã lập tức xuyên tạc, bịa đặt trắng trợn nhằm đổi trắng thay đen và bôi nhọ VN. Đây không phải lần đầu mà là một món nghề gia truyền của TQ vì họ nghĩ mình là nước lớn đông dân thì cứ to mồm nói càn thì có thể biến không thành có, biến sai thành đúng…
Người Việt lâu nay đã biết quá rõ và thế giới cũng đang nhận ra tật xấu này của TQ. Nhưng riêng việc báo giới TQ kêu gọi “đứa con đi hoang (prodigal son) trở về nhà” (1) thì thật nực cười. Nó cho thấy tình trạng bệnh hoạn và thái độ láo xược ngông cuồng của chủ nghĩa bành trướng bá quyền đại Hán một lần nữa lại xúc phạm tình cảm của 90 triệu nhân dân VN và bản thân nhân dân TQ. Xin bảo thẳng vào mặt bọn họ một câu trước đã: Không có chuyện nước lớn nước nhỏ (2), lại càng không có chuyện nước cha mẹ, nước con cái và ai về với ai ở đây!
image002
Các tên và vị trí trong bản đồ này chỉ mang tính minh họa
Nói vậy là vì, bất cứ ai nghiên cứu lịch sử cổ đại TQ đều biết trên đất Trung Quốc ngày nay đã có hàng trăm tộc người Việt (sử TQ chép là “Bách Việt”) cư trú trên khắp miền đất phía Nam sông Dương Tử, chính xác là phía Bắc giáp sông Dương Tử, phía Nam đến miền Bắc VN ngày nay, phía Tây giáp Tây Tạng, phía Đông Giáp biển Thái Bình Dương. Cách nay khoảng 5.000 năm trong quá trình hình thành và phát triển quốc gia, người Hán đã tràn xuống phía nam xâm lấn đất đai của người Bách Việt. Tuy không đầy đủ nhưng sử sách và truyền thuyết của cả TQ và VN đều cho thấy thực tế lịch sử này, trong đó nước Việt của Việt Vương Câu Tiễn có thể được coi là một ví dụ.

Trường hợp Việt Nam cho thấy sau nhiều thời kỳ bị xâm lấn, các vương quốc Bách Việt lần lượt bị chinh phục, rồi bị đồng hóa với các mức độ và tốc độ khác nhau bởi Hán tộc; đến giữa thiên niên kỷ thứ nhất trước công nguyên thì vương quốc Văn Lang (Lạc Việt) một phần bị thôn tính, một phần bị đẩy xuống phía nam và trụ lại với tên gọi Âu Việt của An Dương Vương, sau đó là Nam Việt của Triệu Đà (3) trước khi bị các triều đại Hán tộc chinh phục hoàn toàn và thống trị trong thời gian dài được sử sách gọi là “ngàn năm Bắc thuộc”.
Vì nhiều lý do khác nhau, trong đó lý do chính là ý đồ xuyên tạc và tráo đổi sự thật lịch sử của các triều đại TQ, phần tiền sử của dân tộc Việt Nam ngày nay chỉ còn biết đến qua truyền thuyết về các Vua Hùng và Âu Cơ Lạc Long Quân. Tuy nhiên, khác với các vương quốc Bách Việt khác, Việt Nam sau thời kỳ nghìn năm Bắc thuộc đã không bị đồng hóa mà vẫn trụ vững với bản sắc Việt của mình. Và đây là quốc gia dân tộc độc lập còn lại duy nhất của Bách Việt. Đây cũng là thành quả chung của Bách Việt vì trong thời kỳ nào cũng có nhiều thế hệ người gốc Bách Việt (kể cả những quan lại do Vương triều cử đến VN) đã chọn cách hội tụ tại vùng đất này để lập quốc nhằm giữ gìn cốt cách và bản sắc văn hóa của người Việt.
Vẫn biết hiện tượng xâm lấn, chiếm đoạt đất đai và đồng hóa dân tộc đưa đến sự thịnh hoặc suy của các quốc gia trên thế giới là lẽ đương nhiên, kể cả trường hợp giữa Hán tộc và Việt tộc. Nhưng nếu cố tình xuyên tạc, tráo đổi sự thật lịch sử là một tội ác trước nhân loại. Trên thực tế, giới cầm quyền TQ thời nào cũng vi phạm tội ác này. Họ không bao giờ chịu thừa nhận thực tế là các tộc người Bách Việt chiếm phân nửa dân số của TQ ngày nay và chính người Hán đã thừa hưởng kho tàng giá trị nhân văn vô giá của người Bách Việt để có nền văn minh TQ hiện đại. Họ cũng che dấu thực tế bên trong nước TQ ngày nay chưa hẳn đã hoàn toàn ổn định trước trào lưu đòi tự trị hoặc độc lập của các tộc người không phải Hán tộc như Duy Ngô Nhĩ ở Tân Cương, người Tạng ở Tây Tạng, và một số dân tộc thiểu số gốc gác Bách Việt ở miền nam; trường hợp Đài Loan là khá rõ ràng với đa số Mân Việt và người bản địa Đài Loan. Những kẻ có đầu óc đại Hán nếu thích thì có thể coi các phong trào ly khai như những “đứa con hoang đàng”, nhưng dứt khoát không thể sử dụng từ đó đối với VN một quốc gia độc lập ngang hàng với TQ về mọi mặt.
Chỉ có những kẻ bất chấp sự thật mới dám gọi Việt Nam là “đứa con hoang đàng”(của TQ). Đó là cách gọi vô lối xấc xược mà chỉ những kẻ tư tưởng dân tộc bá quyền nước lớn mới sử dụng, nếu không được ngăn chặn sẽ trở thành chủ nghĩa phát xít chưa biết chừng. Nếu còn chút liêm sỉ họ nên biết trân trọng giữ gìn những mặt tốt đẹp của quá trình giao thoa văn hóa giữa hai dân tộc Việt- Hán, biết tôn trọng mối quan hệ bình đẳng giữa hai quốc gia có chủ quyền. Nếu làm ngược lại điều này họ sớm muộn sẽ đẩy quan hệ hai nước vào vòng xoáy của bạo lực, và TQ không thể tránh khỏi thất bại, thậm chí tan rã như đã từng thấy trong lịch sử.

Ghi chú:
(1) trích đoạn nguyên văn tiếng Anh bài báo trên Tạp chí Diplomat:
” The tone of these articles painted Yang as something like a patient teacher sent to deal with a particularly recalcitrant student. This attitude was most evident in the nationalistic media outlet Huanqiu (the Chinese-language counterpart of Global Times). Huanqiu characterized Yang’s visit as a gift from China, offering Vietnam yet another chance to “rein itself in before it’s too late.” Yang’s function in Hanoi was to “clarify the bottom line and the pros and cons” of the situation. In talking with Vietnam, Huanqiu said, China was “urging the ‘prodigal son to return home.’” Based on this interpretation, it seems that Yang was not in Hanoi for a real dialogue, but simply to deliver a lecture.”
(2) Phát biểu của Ngoại trưởng TQ Dương Khiết Trì tại Diễn đàng Sangri-La mới đây và đã bị dư luận quốc tế phản đối.
(3) Được biết sử sách TQ không thừa nhận Nam Việt của Triệu Đà trong khi sử sách VN các thời kỳ phong kiến như Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi.. đã coi Triệu Đà là “bậc tiền bối” của dân tộc. Chỉ có ý kiến của nhà sử học Ngô Thì Nhậm bác bỏ, và sang thời sau CM tháng 8/1945 cũng không coi Triệu Đà là vua VN . Hiện tại đây là chủ đề đang tranh cãi. Nhân đây xin đề nghị giới sử học VN cần xem xét đánh giá lại và kết luận dứt khoát về chủ đề này.
…………………..
(Bài đăng lại từ Blog Đại Việt) .
Đọc bài viết trên của tác gỉa Trần kinh Nghị …Văn nhân tôi thấy :
Có cần phải dạy bài học này không ?.
Xuân hạ thu đông đắp đổi qua 4 đời tổ phụ Thái Cao Thái Viêm Thái Khang Thái Tiết của 4 tộc người ở 4 phương Nam Bắc Đông Tây ,…không biết bao nhiêu ngàn vạn năm truyền đến đời tổ phụ thứ 5 là Thái công ở ‘đất Giữa’ cũng là chỗ giữa , sách vở lâu đời tam sao thất bản chép thành ‘Giao chỉ’ . Thái Công đã vì muôn dân lập nên Hữu Hùng quốc nước của người họ Hùng , Thái Công lên ngôi đế hiệu là Hùng Vũ vương cũng gọi là đế Hoàng (màu vàng sắc trung)
Sử Việt gọi là đế Minh  (nhật nguyệt sáng soi) cháu 3 đời của tổ phụ Thái Viêm -Thần nông (không phải Viêm đế anh em với Hoàng đế) , vũ là vua , Hùng Vũ là vua Hùng chính là quốc tổ Hùng vương trong tâm thức Việt .
Từ đất giữa – Giao chỉ trải ngàn năm đất nước mở rộng dần , thời Hạ trung hưng đất đai người họ Hùng đã gần trọn Hoa Nam , đời Thương đến bờ Trường Giang sang Thương Ân đã làm chủ lưu vực sông Hoài có nơi đã vượt qúa Hoàng hà . Nhà Châu đã mở mang hết chiều rộng đất nước , Bắc Nam từ Hoàng hà xuống đến miền Đông Nam Á lục địa , Tây – Đông từ cao nguyên Thanh Tạng tới tận biển Đông Trung Hoa .
Giữa thời Đông Châu Thiên hạ đại loạn vua chỉ còn ngồi giữ 9 cái đỉnh tượng trưng cho 9 miền đất nước làm vì , anh em chia 5 sẻ 7 chém giết lẫn nhau cả mấy trăm năm thời sử gọi là Xuân thu Chiến quốc ,Tần thủy hoành dù mang tiếng bạo ngược nhưng lại là ông vua vĩ đại có công thống nhất thiên hạ và mở rộng đất đai vượt qúa Hoàng hà về phía Bắc (nay) . Lợi dụng lúc tướng Mông Điềm mất nhà Tần suy loạn biên giới phía Bắc không còn người canh giữ Hung nô đã lục tục kéo về chiếm hết phía Bắc Hoàng hà .
Lí Bôn – Lưu Bang để đánh bại Hạng vũ lập nên nhà Hiếu mà sử Tàu man trá biến thành Tây Hán đã phải nhờ vả nhiều vào những tộc người Hung nô đang còn hoang dã với tính khí hung bạo , khi lên ngôi đã trả ơn coi họ như người 1 nhà trong người Thiên hạ , Hoàng gia cũng thông hôn với qúy tộc Hung nô tạo ra 1 hoàng tộc tạp chủng , Hung nô lợi dụng cơ hội đã vượt Hà tiến xuống phía Nam (nay) ở lẫn lộn với người Trung Hoa . Qúy tộc đại thần Trung hoa phản ứng cầm đầu là Lữ hậu và con cháu nhà họ Lữ gây ra cuộc phân li Nam triều Bắc triều hàng trăm năm mãi cho tới khi Hiếu Vũ đế đánh bại triều đình Nam Việt thống nhất giang sơn , nhà Hiếu sụp đổ Vương Mãng lập nên triều Tân đã quyết liệt xử lí vấn nạn nảy , đỉnh điểm là cuộc thanh lọc sắc tộc trong hàng ngũ qúy tộc , cấm họ Lưu không được làm quan ; đồng thời hạ tất cả các vương Hung nô xuống tước hầu ; sử chép vậy thực ra là Vương Mãng áp dụnh chính sách phân biệt chủng tộc , cấm người tộc Liêu – Lưu dòng Hung nô không được tham gia guồng máy cầm quyền Trung hoa tức họ bị coi là ngoại nhân .
Vương Mãng với những chính sách xã hội qúa cấp tiến so với thời đại đã khiến Trung hoa suy sụp . Đám qúi tộc họ Lưu – Liêu cầm đầu dân của họ nổi loạn sử gọi là đám giặc cỏ Lục lâm . Xưa nay vẫn hiểu Lục lâm là tên ngọn núi nơi đám cướp đường đóng đại bản doanh , thực ra lục là số 6 con số chỉ phía Nam mông muội trong Hà thư (đồ) , lâm là biến âm của Nam , Lục lâm thảo khấu nghĩa chính xác là bọn giặc cỏ Nam man , ở phía Nam (xưa) Trung hoa tức phía Bắc nay là đất của Hung nô , đám người lúc còn mông muội gọi thủ lãnh là Thiền vu, khi tiếp súc với Trung hoa tiến bộ hơn trong việc tổ chức cộng đồng thì gọi thủ lãnh là Hãn , phương Tây kí âm thành Khan .
Trên qủa đất sau cuộc nổi loạn của đám Lục lâm thảo khấu đã ra đời các Hãn quốc , Hãn là vua là chúa ,nước của Hãn là Hãn quốc ; Hãn quốc đồng nghĩa với Vương quốc nhưng sau đám phù thủy biến ra Hán quốc danh từ riêng , từ khi có Hán quốc do đám thảo khấu đắc thời dựng nên mới có người Hán , văn hóa văn minh Hán .Trước mốc thời gian này lịch sử và văn minh ghi chép trong cổ thư cổ sử Trung hoa không thuộc về họ .
Lục lâm thảo khấu lập nên 2 triều đại của Hán quốc hoặc cũng có thể là 2 Hán quốc , đầu tiên là triều hay nước Tiền Hán của Canh Thủy đế đô ở Tây An Thiểm Tây , Tiền Hán bị khởi nghĩa Xích Mi diệt , Lưu Tú kế tục lập nước hay triều Đông Hán cũng là Hậu Hán ở Hà Bắc , Đông Hán đánh bại Xích Mi rồi xua quân đánh chiếm thiên hạ lần lượt từ Bắc xuống Nam , vó ngựa của quân binh Lưu Tú – Mã Viện chỉ dừng lại ở Giao chỉ nơi cuộc chiến chưa bao giờ chấm dứt (truyện Nam chiếu – Lĩnh Nam trích quái) . Từ đấy Thiên hạ chia làm đôi , 1 nửa bị Đông Hán chiếm đóng cai trị sau hình thành cái bị gọi sai lầm là thế giới Trung hoa , nửa còn lại như rắn mất đầu về chính trị chia thành 5-7 nước , về văn hóa rơi vào vùng ảnh hưởng của văn hóa Ấn độ …người ở đấy coi như mất gốc .
Thời điểm Lục Lâm thảo khấu giết Vương Mãng diệt nhà Tân được coi là mốc lịch sử chấm dứt thời Hữu Hùng quốc , triều Tân của Vương Mãng là đời Hùng vương thứ 18 ; Hùng Duệ vương – Duệ lang , duệ là kéo dài về mặt lịch sử triều Hùng vương 18 chỉ được coi như là thời gian kéo dài thêm ra của triều Lí Bôn Hùng Trịnh vương Hưng đức lang .
Người ta đã sai lầm hoàn toàn khi coi nhà nước Hán do Lục lâm thảo khấu dựng nên là Trung hoa , Hán và Hoa là 2 giống người khác nhau thuộc về 2 chủng tộc khác nhau , 2 nền văn hóa văn minh khác nhau , khi chiếm đóng Trung hoa người Hán còn là dân bán khai chưa biết đến chữ nghĩa là gì . Qúi tộc và tầng lớp lãnh đạo Hán tộc muốn học theo văn minh Trung hoa buộc phải học tiếng và chữ Trung hoa sau thứ chữ học mót ấy trở thành ‘quốc ngữ chữ nước ta’ chứ trên đời này chẳng có thứ chữ nào là chữ Hán cả . Chỉ 1 việc người Hán nói ngọng không thể phát âm đúng tiếng Trung hoa đến nỗi Hứa Thận phải nghĩ ra cách thức gọi là ‘phiên thiết’ đề giúp họ đọc cho chuẩn cũng đủ chứng minh điều này .
Trung hoa phục hưng lần thứ 1 tương đối ngắn sau cuộc khởi nghĩa Khăn vàng, sử Tàu gọi là thời Tam quốc ; thực ra đó là thời lưỡng quốc Thục- Ngô của người Trung hoa chống lại giặc Ngụy giống Mongoloid.
Vó ngựa mông cổ nhà Tấn lại lần nữa dẫm nát Trung hoa , lịch sử không hề có nhà Tấn , nước Tấn . Tấn là từ che đậy đi danh xưng Tây Hán mà thôi , đám viết sử lợi dụng phép phiên thiết … ‘Tây hán thiết Tấn’ để ngụy tạo lịch sử đem danh xưng Tây Hán gán cho triều đại của Lí Bôn – Lưu bang lộn sòng lịch sử Hán và Hoa ,họ tháp cái đầu Rồng lên mình Ngựa từ đấy mọi thứ thuộc lịch sử và văn minh Trung hoa kể cả tổ tiên Tam hoàng Ngũ đế bỗng hóa ra…của người Hán …để hợp lí hóa vấn đề sang tên đổi chủ họ hô hoán Hoa Hán là một…thực là trò bịp bợm thô thiển làm sao nước và lửa có thể là 1 .
Lần Trung hoa phục hưng huy hoàng thứ nhì kéo dài mấy trăm năm từ nhà Bắc Chu cho tới vãn Đường ; Sử thuyết Hùng Việt xác định nhà Bắc Chu là triều đại của người Cửu Việt (Cửu – 9 nghĩa là phía Tây), nhà Tùy là của người Tủy Việt hay Sở Việt tức Việt nước và Đường là triều đại của tộc Thường Việt hay Việt Thường .
Thịnh rồi lại suy Thiên hạ họ Hùng vỡ làm 3 mảnh Đại Việt – Đại Lí và Đại Tống thời hậu Đường . Giặc Mông cổ tràn đến 1 lần nữa đặt Đại Lí rồi Đại tống dưới móng ngựa của họ , riêng xâm lăng Đại Việt cả 3 lần đều bị đánh tan tác , Đại Việt dù chỉ còn đất phía Tây nhỏ hẹp nhưng vẫn là còn chỗ đặt bàn thờ 18 đời Hùng vương tượng trưng cho anh linh tổ tiên những người đã vì muôn dân mà dựng nên Hữu Hùng quốc – nước của người họ Hùng 5000 về trước . Trên đất Đại Lí và Đại Tống thì Bắc thuộc lần này dài và tàn tệ vô cùng ; nhà Nguyên của Đại Hãn quốc coi người Trung hoa hơn súc vật chẳng bao nhiêu , chúng xếp nhà Nho tinh hoa của văn minh Trung hoa gần ngang hàng với ăn mày …, bị đối xử tàn tệ như thế nhưng vẫn còn được là người Trung hoa dù là Trung hoa nô lệ ,Tàn độc hơn nhiều ; sang thời Mãn thanh bằng cuộc văn chiến qủy quyệt chỉ sau 3 đời ông cháu Khang hy tới Càn long
với ‘Khang hi tự điển’ và ‘Tứ khố toàn thư’ 4 cái kho sách và bản đồ hàng gian hàng gỉa ra đời là Trung hoa mất nòi không còn biết gì đến vua Hùng và hữu Hùng quốc nữa ,Thiên hạ hóa ra là của người Hán và đám Hán hóa mất gốc ; trên đất Trung quốc qua mấy trăm năm bị tẩy não đã hình thành ‘giống’ người lạ … da Trung hoa hồn Mông Mãn ,… thực sự điều này cũng chẳng lạ gì , ở Việt nam nếu thực dân Pháp không bị tống tiễn sớm thì chắc hôm nay không thiếu gì kẻ da vàng mũi tẹt huyênh hoang tổ tiên ta …là người Gô loa .
Người Hán quê gốc ở phía Bắc Hoàng hà thuộc loại hình nhân chủng Mongoloid thường được gọi chung là Hung nô hay người Hồ (thực ra 2 tên là 1; hung nô thiết hồ) hiện chiếm không tới 1/3 dân số Trung quốc , còn lại là hơn 2/3 người thuộc chủng Mongoloid phương Nam , đây mới chính là người Trung hoa thực sự , người Hán chỉ là đám chiếm đoạt , chiếm đoạt đất đai , chiếm đoạt văn minh , chiếm đoạt lịch sử và đặc biệt vô tiền khóa hậu …chiếm luôn tổ tiên của người Trung hoa.
Sách vở Trung quốc nhận họ có gốc gác ở Hoàng hà , khảo cổ học xác định xa xưa đấy là đất của chủng Mongoloid như vậy thì …xét ra hơn 2/3 dân Trung quốc thuộc loại hình nhân chủng Mongoloid phương Nam không lẽ là đám …trôi sông lạc chợ ?… chui ở đâu ra ?. Về khía cạnh nhân học người chủng Mongoloid không thể nào đẻ ra người thuộc chủng Mongoloid phương Nam tức người Hoa được.
Không ít người Trung Hoa đang sống trên đất vốn là của cha ông mà lại gọi các đại Hãn Mongoloid là vua cha thì thực là u mê tột cùng , đại diện các tộc họ chỉ cần bỏ ra hơn 100 đô la xét nghiệm DNA  là biết ngay một cách chính xác về gốc tích và con đường thiên di ngàn vạn năm của dòng tộc mình . Thực ra điều này giới khoa học Trung quốc đã và đang tiếp tục làm , đám chức quyền đâu có đui nên rõ hết thảy nhưng vì mưu đồ chính trị đã dấu nhẹm không công khai ra cho dân biết đồng thời viết lại lịch sử và lịch sử văn minh Trung hoa thực , họ sợ Thiên hạ đại loạn chắc?, Trung quốc ngày nay vẫn y nguyên là 1 triều đại của Đại Hãn quốc , khác là không có khả hãn ngồi trên ngai vàng mà thôi ?.
Về máu huyết người Việt nam và phần lớn người Hoa chủng Mongoloid phương Nam đặc biệt là người Hoa Nam là anh em ruột thịt , tộc Hoa này và những người Đông Nam Á khác chí ít cũng là anh em nhà chú nhà bác nhà cô nhà cậu , đấy là sự thực không thể chối bỏ (tại sao lại chối ?) .
Cổ nhân đã dạy ‘anh em kiến gỉa nhất phận’ , khi đã có gia đình riêng thì nhà ai nấy lo , anh em không san sẻ được về mặt vật chất nhưng về tinh thần vẫn có thể và cần nâng đỡ nhau , lúc ngặt nghèo phải chạy đến với nhau …, đấy mới là con người , Là anh em mà đang tâm hại nhau ,mưu toan cướp đoạt của nhau thì thực không bằng loài heo loài chó .

 Báo giới Trung quốc kêu Việt nam quay đầu , quay đầu về với ai ?, phá bỏ đền thờ quốc tổ Hùng vương quay đầu u mê gọi giặc là cha chăng ?.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét