Thứ Năm, 11 tháng 7, 2013

Người Nhung .


Hung Nô là tên gọi chung các bộ lạc du cư ở Bắc Trung quốc , Từ thế kỷ 3 > năm 0 họ đã kiểm soát một đế chế rộng lớn trên thảo nguyên, kéo dài từ miền nam Siberi, Mãn Châu và các tỉnh, khu tự trị của Trung Quốc ngày nay là Nội Mông Cổ,phía tây tới tận Cam Túc và Tân Cương.
Tư liệu lịch sử hiện có thì từ Thời nhà Chu, không viết gì về họ, ngoài các cụm từ như rợ (nhung) Địch, rợ Hồ có lẽ chỉ các nhóm người này thì không còn thông tin gì khác ? . Thực ra không phải vậy ; từ đời Thương Ân người ta đã biết đến 2 thuộc quốc của Trung Hoa là nước Quang và nước Từ của người Hung nô .
Nước Từ xác định được vị trí trên bản đồ Trung hoa nhờ thông tin về cuộc đông chinh 3 năm của ông Châu công Đán đánh bại ‘Hoài di và Từ Nhung’ , xin nhắc lại Trung hoa từ thời nhà Hạ đã chia người trong Thiên hạ thành Hoa Hạ – dân sống ở vùng trung tâm và Di hạ chỉ dân sông ở ngoại vi thường gọi là Tứ di , Hoài di chỉ người Trung quốc vùng sông Hoài còn Từ Nhung nghĩa là rợ phía Đông tức rợ ở vùng bán đảo Sơn đông ngày nay , chữ Từ ở đây chỉ là từ dịch sang hán văn từ ‘thương’ Việt ngữ chỉ phương đông theo Dịch học .
Vị trí Nước Quang xác định được nhờ tên Quang vũ vua khai sáng nước Đông Hán , Quang chính xác là Quan nghĩa là nhìn là nom chỉ phương Nam , vũ là biến âm của từ vua Việt ngữ ; Quan vũ chỉ nghĩa là chúa phương Nam không phải tên riêng . Tiên khởi Quan vũ lập quốc ở vùng Hà Bắc ngày nay tức vùng bờ bắc Hoàng hà .
Sử ký Tư mã Thiên viết ....(Tần thủy hoàng) sai Mông Điềm đem quân quét sạch vùng Hà Nam , đuổi người Nhung đi và đem dân ( nhà Tần) tới ở ... (Không hiểu sao tư liệu lịch sử Trung hoa lại gọi vùng Sơn Tây – Hà bắc là đất Hà Nam tức phía Nam Hoàng hà ?).
Tư liệu khác viết :
Sau khi Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Quốc, năm 214 trước Công nguyên, lệnh Mông Điềm đem 30 vạn quân Tần lên phía bắc đánh Hung Nô , vào năm 215 TCN, quân đội nhà Tần do Mông Điềm chỉ huy đã xua đuổi Hung nô ra khỏi các đồng cỏ bên sông Hoàng Hà.
Như vậy xét ra : người Nhung ở Hà Bắc – Sơn tây chép trong Sử ký chính là Hung nô ; khi dùng phép phiên thiết Hán văn thì Hung nô cũng là rợ Hồ ; Hung nô thiết Hô ↔ Hồ , thì ra cũng chỉ các bộ lạc du mục ở phía bắc Trung quốc nhưng được gọi bằng nhiều tên như : Nhung - Hung nô - Hồ về sau còn thêm những tên khác như :Hán -Thát – Liêu - Mông - Mãn V.V. khiến lịch sử Trung quốc rối tinh lên không biết đâu mà lần .
Năm 209 TCN, tức cùng thời với nhà Hán Trung quốc , người Hung Nô đã liên kết lại với nhau thành một liên minh hùng mạnh dưới quyền của thiền vu Mặc Đốn (khoảng 209 TCN-174 TCN). Mặc Đốn mở rộng đế chế của mình Về phía bắc chinh phục hàng loạt các bộ tộc du cư, bao gồm cả người Đinh Linh (Sắc Lặc) ở miền nam Siberia. Ông cũng đè bẹp sự kháng cự của người Đông Hồ tức Hung nô phía Đông ở Mông Cổ và Mãn Châu, cũng như người Nguyệt Chi trong hành lang Cam Túc ở phía Tây.
Mạo Đốn chiếm lại tất cả các vùng đất đã bị tướng của nhà Tần là Mông Điềm đánh chiếm trước đây . Trước khi Mặc Đốn chết vào năm 174 TCN thì người Hung Nô đã xua đuổi hoàn toàn người Nguyệt Chi ra khỏi hành lang Cam Túc và khẳng định sự có mặt của họ tại Tây Vực, thuộc Tân Cương ngày nay. Năm 201 TCN, Hung Nô tấn công nhà Hán sau khi vây hãm Thái Nguyên Hán Cao Tổ Lưu Bang đích thân chỉ huy một chiến dịch quân sự chống lại Mặc Đốn. Tại trận Bạch Đăng (nay là Đại Đồng, Sơn Tây), quân Hán đã bị khoảng 400.000 kỵ binh Hung Nô bao vây 7 ngày, sau phải nhờ bầy tôi dùng quà cáp biếu xén cho các thiền vu hoàng đế Trung hoa mới thoát ra được , chạy về đến nhà mà còn hoảng hồn hoảng vía ...
Trong bài viết trước đã nói cụm từ Thiền vu chỉ là ‘phản’ của ‘thù viên’ tức chúa (viên ↔ vương) đám quân đối địch với Trung hoa , Mạc Đốn hay Mao dun thiết Man – mun ý nói ông ta người Nam man tức người vùng bắc Trung quốc ngày nay. Thông tin này chỉ rõ Hung nô đã hoàn toàn làm chủ vùng bắc Hoàng hà như vậy nước Đông Hán của Hán Quang vũ là 1 nước của người Hung nô không phải 1 triều đại của Trung hoa vì Sử Trung hoa rất rõ ràng và nhất quán : Man - Di - Nhung - Địch chỉ là 4 giống rợ hèn kém bâu quanh Trung Hoa ... .Rợ Hung nô – Rợ Hồ chỉ là tên gọi khác của người Nhung thời trước , dân Đông Hán gốc là người Sơn Nhung hay Nam Nhung , họ Tư Mã Hoàng tộc nước Tấn cũng là người Sơn Nhung này (sơn là quẻ cấn tượng của núi – non , non↔nan↔nam , Tư Mã cũng là Tây Mã nghĩa là phía tây đất Mã ) .
Cùng với Sơn Nhung còn có người Từ Nhung tức người Nhung phía đông là tộc người đã tạo nên nước Tào Ngụy thời Tam quốc , ngoài ra còn có Tây Nhung thời ‘Tiền Hán’ làm chủ vùng Thanh hải và Thiểm tây và người Khuyển Nhung tức tộc người nói tiếng Tạng – Miến . Khuyển Nhung chính là đám giặc đã uy hiếp buộc nhà Châu phải dời đô sang phía Đông bắt đầu thời Đông Châu . Khuyển là chó và Khương là trâu chỉ là lối ký âm Hán văn đểu cáng từ ‘Khăng’ tiếng Việt nghĩa là không thay đổi đặc tính của phương Tây theo Dịch học đối lập với ‘Rung’ ↔ lung↔long chỉ tính động của phương Đông .




 

Bản đồ phân bố người Nhung thời Trung Hoa cổ đại .
 

Tư liệu lịch sử Trung quốc có chép sự việc ...Tầng lớp qu‎ý tộc Hung Nô tại Sơn Tây đã đổi họ của mình từ Loan Thì (欒提) thành họ Lưu ...Như thế lịch sử Trung quốc có đến 2 hoàng tộc ‘Lưu’ khác nhau ; 1 là qúy tộc Trung hoa như dòng họ Lưu Bang nhưng Họ Lưu cũng chính là họ của 2 ông vua Hán do Lục lâm thảo Khấu dựng lên ,vua nước Hán đô phía tây là Hán Canh thủy đế - Lưu Huyền và phía Đông là Hán quang (quan) vũ đế - Lưu Tú , Lưu cũng là họ của ông vua Hán nổi tiếng khác là Lưu Uyên nước Hán (triệu) , oái oăm là Lưu Uyên lại nhận Mạc Đốn chúa Hung nô thống nhất đầu tiên đối thủ của Lưu Bang Trung hoa làm tiên tổ của mình ; chính nhờ điều này mà ta có thể khẳng định triều Lưu Bang trong lịch sử Trung Hoa không thể là 1 triều đại của Hán tộc như chính sử Trung quốc viết .
Giới sử học Trung quốc đã tốn không biết bao nhiêu công sức và giấy mực để cố dẫn người ta đến nhận thức sai lầm : Người Hán không phải là Hung Nô mà chính là Trung Hoa , điểm mấu chốt của sự thể là việc nhập nhèm 2 họ Lưu ở 2 triều Tây Hán và Đông Hán , Lưu Bang người Trung hoa gọi là Tây Hán được nối tiếp bởi Lưu Tú người Hung Nô Đông Hán , lịch sử cứ như liền 1 mạch vì Lưu nào cũng là Lưu ...nhưng với sự khai đào về tộc người Nhung trong tư liệu lịch sử Trung Hoa thì công của họ đã thành công cốc ...vì dòng sử chân xác đã chỉ rõ ...người Nhung ở Bắc Hoàng hà (Sơn Tây – Hà Bắc) chính là con dân của thiền vu Mao Dun chúa đầu tiên của Hung nô Hợp nhất và Trung hoa chỉ có họ Lý không có họ Lưu – Liêu (Lưu Bang chỉ là ký âm ‘đểu’ của Lý Bôn) .
Kết luận : Tây Hán , Đông Hán , Tào Ngụy và Tây Tấn – Đông Tấn là những nước của người Nam Nhung (Sơn Nhung) và Từ Nhung (Đông Nhung ) ; Nhung là tên gọi cổ xưa của 1 nhánh trong cộng đồng du mục Hung nô tức rợ Hồ mà thiền vu Mao Dun là chúa đầu tiên đã có công Hợp nhất , tộc người Nhung chính là tiền nhân của Hán tộc , họ tồn tại cùng thời và là địch thủ suốt bao năm của triều Lưu Bang – Lý Bôn Trung Hoa và cũng chính họ là Lục lâm thảo khấu diệt triều Tân của Vương Mãng năm 23 sau công nguyên chấm dứt thời Trung hoa cổ đại bắt đầu thời vong quốc , tức thời Trung hoa ‘ thuộc Hãn’ ...(hãn →Hán ) .

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét